“Chẳng phải nó mãi mê sự đời mà quên sự đạo đâu. Nó vẫn biết là nhờ ơn Chúa giúp, nó mới có được cuộc sống như ngày hôm nay. Nếu so sánh sự đời của nó với mọi người, thì cái có ở đời của nó chẳng thấm vào đâu. Hay nói rõ hơn là chưa bằng cái lẻ của thiên hạ, nhưng nó rất hạnh phúc vì tất cả là do ơn Chúa ban và do công khó nhọc của vợ chồng nó làm ra”.
Theo thông lệ thì người ta hay tính toán sổ sách vào những ngày cuối năm, để tổng kết những chuyện năm cũ: những chuyện buồn, chuyện vui; chuyện buôn bán, làm ăn lời nhiều hay lời ít; chuyện gặp may mắn hay bị những rủi ro; chuyện thành công hay gặp thất bại. Nhưng thường người ta chỉ có thì giờ để ngồi lại tổng kết những chuyện của thế gian, còn chuyện đạo nghĩa, nhân đức của phần hồn thì chẳng có mấy ai. May ra thì còn có mấy ông cố đạo, chuyên lo chăm sóc phần đạo cho con chiên của mình mà thôi.

Nó nằm trằn trọc không ngủ được, nó lăn qua lăn lại trên chiếc giường có tấm nệm cũ mà nó nhặt được từ ngày mới đặt chân đến xứ Tasmania này. Chiếc nệm cũ không đủ độ cứng khiến tấm lưng của nó cong võng theo sức nặng của thân xác nó, làm cơn đau lưng của nó càng ngày càng gia tăng. Nó đã định bụng mấy lần, sẽ mua một tấm nệm mới cho vợ chồng của nó nằm cho đỡ đau lưng. Nhưng nó cứ khất lần mãi, vì tấm nệm trông cũng còn tốt chán, mua thêm cái mới làm chi cho uổng tiền. Vợ nó còn nói thêm vào: “ Tiền ấy để mà làm phúc, còn mình cứ nằm tấm nệm cũ này, để coi như đền tội ở thế gian cho được phúc đời sau”.

Có lẽ vợ nó ngày xưa đi tu dòng “khó khăn” thì phải, nên suốt đời vợ nó chẳng mơ ước sự sang giàu, chỉ mong đủ ăn đủ mặc là được. Cơm thì ngày ba bữa, mặc thì cốt ấm mùa Đông, và mát mùa hè là đủ. Áo quần thì cái nào mà con gái, con dâu chê thì vợ nó mang về sửa chữa lại để mặc trông cũng trẻ trung ra phết.

Còn về phần nó, thì cả đời cũng chẳng được ai khen là nó giàu của bao giờ cả, vì nó đã chiếm được danh hiệu là “giàu con” nhất trong anh em, bạn bè. Nó đã làm việc cả đời vì tương lai cho con cháu. Nó chỉ mong cho lũ con cháu mong có ngày được bằng anh bằng em với người ta là được rồi. Chính vì thế mà đầu năm vừa rồi nó đã bỏ công việc tốt, lương cao để trở thành công nhân quèn nơi xứ Tasmania này, để ủng hộ cô con gái út của nó học ngành y khoa, cũng may ông bà thương, thánh thần phù trợ, và Chúa giúp nên cô con gái út của nó đã đậu được năm đầu tiên vào cuối năm nay. Việc làm của nó thì ổn định với mức lương chỉ hơi thua kém một tí so với khi nó còn ở trong đất liền, kể ra thì quá dư đủ để cho gia đình có ba người của nó hiện nay. Tuy là vật giá ở đây quá mắc mỏ, đảo du lịch cơ mà, tiêu cái gì mà chả mắc. Thế nhưng vợ nó lại trổ tài trồng rau xanh ở vườn sau nhà, hái rau mọc bờ suối. theo kiểu hồi ngoài Bắc mới di cư vào trong Nam, cho nên nó  ngày nào cũng có rau ăn thoải mái, sướng cái ruột. Đã thế các con của nó cứ ít tháng lại cung cấp cho một xe van thực phẩm: gạo, bún, mì, đồ khô, trà rượu, thuốc men. Nó thấy mình sống cứ như tiên trên đảo Tasmania vậy. Nó bỗng chợt phát ra tiếng cười thật lớn. À há! Nó thật có phước khi có được người bạn đời chung thân là vợ của nó. Cái đẹp của vợ nó là cái đẹp của trời phú cho. Khuôn mặt hiền hòa, tính tình chất phát, vợ nó không phấn son không nhẫn kim cương, hột xoàn. Thế mà nó cứ vẫn thấy và yêu cái đẹp của vợ nó, dù đó chỉ là cái cái đẹp của con gái nhà quê. Đôi khi nó cũng tội nghiệp cho vợ nó. Lấy chồng sĩ quan mà chả được hưởng cái sướng làm vợ quan bao giờ. Lại gặp cảnh thời thế, thế thời phải thế nên vợ nó đã phải tần tảo buôn bán nuôi con. Cứ sống như thế cho đến khi đoàn tụ gia đình. Cả gia đình nó lại một lần nữa gầy dựng sự nghiệp từ hai bàn tay trắng. Những đứa con lớn tuổi thì vất vả nhiều và chịu nhiều thiệt thòi hơn những đứa bé. Chính vì lo cho con, mà giờ đây nó vẫn chưa hề bù đắp, lo lắng cho vợ của nó một cách hoàn hảo như mọi người được.

Trong sổ đời nó còn ghi chép tình trạng sức khỏe của nó. Tính từ đầu năm đến nay. Với cái lạnh của xứ Tasmania này đã giúp cái bệnh thấp khớp, đau đầu gối của nó thuyên giảm nhiều hơn thay vì gia tăng như nó tưởng. Còn cái bệnh đau lưng thì vẫn thế cứ nằm cong lưng, gối cao hay nâng nhắc cái gì nặng thì y như là cơn đau sẽ ập đến vào ngày hôm sau. Cái bệnh nhức đầu thì làm sao mà tránh được vì nó ngủ rất ít, chỉ độ 6 tiếng cho một ngày là đủ. Thế nhưng vì công việc sửa chữa nhà, và còn phải đi làm đêm, mà nó phải ngủ ít hơn, thì cơn nhức đầu sẽ hành nó ngay. Cũng may nó thuộc loại tốt bụng, nên ăn thức ăn gì cũng được, uống bia rượu nào cũng không sao cả. Hồi còn nhỏ, mẹ nó thường bảo nó thuộc loại dễ nuôi cơ mà. Bây giờ, nó cũng ăn nhưng nuốt nhiều hơn là nhai, vì răng hàm thì nhổ và răng cửa thì rụng, nên ăn gọi là cho no cho vui nhiều hơn là ăn biết ngon. Điều này ai có rụng răng rồi cũng sẽ thông biết và hiểu cho nó.

Đời nó như cánh chim viễn xứ. Từ đất liền sang đảo Tasmania  này để sinh sống. Thủa ban đầu không quen biết, nên tìm chỗ trú thân thật vất vả. Cũng may cha chủ nhiệm báo Dân Chúa giới thiệu cho nó một gia đình độc giả trung thành của báo Dân Chúa. Anh chị Nghi-Hoàng, và nhờ sự giúp đỡ, giới thiệu của anh chị ấy, nó đã có dịp quen biết được với rất nhiều người Việt. Họ gồm đủ mọi loại thành phần nghề nghiệp như buôn bán, nhà hàng, học sinh, công nhân, viên chức. Họ gồm đủ mọi loại tuổi, tôn giáo.

Việc làm của nó tưởng chừng như dễ xin việc, nào ngờ khi bước sang đảo, thì hỡi ôi! Rừng nào cọp ấy. Nó có đầy đủ giấy tờ giới thiệu, chứng minh là một nhân viên chuyên về tim mạch thâm niên từ bên đất liền, thế mà khi sang đảo này nó cũng bị chờ đợi mãi, mới có được việc làm thích hợp tại một bệnh viện công giáo (Calvary Hospital). Thế rồi công việc làm của nó cũng tạm ổn định và sau hơn 7 tháng thuê mướn căn hộ nhỏ hẹp. Nó đã quyết định mua nhà trong thành phố Hobart này, để tiện việc đi làm và cho con gái út của nó đi học. Căn nhà lầu hơn trăm tuổi, nên cần nhiều sửa chữa, tân trang thì mới trông được mắt. Vợ nó lại trổ tài cuốc đất trồng rau sau vườn. Chỗ thì rau diếp, chỗ thì thùng ngò, thùng hành, thùng rau răm, rau dấp cá. Chỗ thì trồng cây tranh, chỗ thì trông hồng, mai vàng, mai đỏ giống của xứ Úc. Nhờ vào hạt giống của các bà thân quen, và  vợ nó mang sang từ bên đất Melbourne, nên gia đình của nó có rau xanh ăn thoải mái, mát ruột. Vì ở đảo này thức ăn cái thứ gì củng mắc gấp đôi, gấp ba lần ở đất liền. Mỗi lần nhìn vườn rau xanh tươi, vợ nó lại bảo: “ thế mà người Việt ở đây họ bảo trồng không được”. Nó cười theo và nói giỡn: “ Ừ! thì không ‘chồng’ thì làm gì có để ăn, để nhờ ”.

Chẳng phải nó mãi mê sự đời mà quên sự đạo đâu. Nó vẫn biết là nhờ ơn Chúa giúp, nó mới có được cuộc sống như ngày hôm nay. Nếu so sánh sự đời của nó với mọi người thì cái có ở đời của nó chẳng thấm vào đâu. Hay nói rõ hơn là chưa bằng cái lẻ của thiên hạ, nhưng nó rất hạnh phúc vì tất cả là do ơn Chúa ban và do công khó nhọc của vợ chồng nó làm ra. Từ ngày sống xa đất liền, vợ nó trở thành bà chủ cả trong gia đình. Vợ nó lo từ việc cơm nước trong gia đình, vườn tược, và việc đọc kinh trong gia đình nữa. Tối đến thì đọc kinh chung. Sáng thức dậy, nó còn nằm trong giường thì vợ nó đã giục nó làm dấu đọc kinh sáng dâng ngày cho Chúa. Tới mùa Chay, mùa Vọng thì vợ nó nhắc nhở nó và con cái trong gia đình đi xưng tội. Ôi! Cám ơn Chúa đã ban cho nó, có được người bạn đời giữ đạo kiên trì đến như thế.

Gần đây, nó nhận thấy bàn tay của Chúa đã quan phòng che chở  nạn xe cộ xẩy ra. Ở xứ Tasmania này, đường thì rất tốt, nhưng chỉ phải mỗi một tội là khi trời mùa Đông có tuyết, hay khi trời mưa lất phất, ướt đường thì tai nạn xe bị trượt đường dễ xảy ra. Cách đây hơn một tuần nó lái xe đưa gia đình đi chơi về phía nam của Tasmania, vùng Dove. Khi trở về, trời mưa lất phất, chưa kịp ướt đẵm đường. Cho nên mặc dù lái xe ở trên xa lộ mà nó chỉ chạy với tốc độ 60 cây số/ giờ. Thế mà chiếc xe của nó bị trượt đường, đâm qua lề đường phía đối diện và lao xuống ruộng, và chỉ còn gang tấc thì tự nhiên chiếc xe quay lật lại 180 độ, có lẽ vì nó thắng gấp xe nên đầu xe hướng ngược trở về phía đường lộ. Việc xảy ra như trong phim điệp viên 007, mà nó thường hay xem, thế mà không ai bị sao cả, ngay cả chiếc xe cũng chỉ bị rụng chiếc cảng nhựa bên hông mà thôi. Nhờ chiếc xe bốn bánh lái (4WD), nên nó vượt ruộng cỏ sình lên lại lề đường một cách không khó khăn mấy. Về đến nhà nó mang kìm, búa ra gõ và cột lại chiếc cảng nhựa bên hông xe, trông cũng không đến nỗi tệ. Tạ ơn Chúa đã giữ gìn, và cho nó còn sống trên cõi đời để lập công, lập phúc. Cũng có nhiều việc khiến nó phải lo toan, tính toán điên đầu, thế mà người tính không bằng trời tính, cho nên mọi việc diễn tiến rất êm xuôi khác ngược hẳn với những gì nó đã dự tính.

Viết đến đây, nó giật mình nhớ đến “sổ đạo” của nó, cái cuốn sổ ghi chép các việc làm về đời sống đạo đức của nó, chỉ ghi được vài trang giấy mà thôi, và hình như không có gì là có tổ chức nghiên cứu cả. Bạ đâu thì nó âu đấy, nghe người này nói tốt thì nó làm, theo họ vào đoàn thể này hay hội đoàn nọ. Nghe người kia khen giỏi thì nó hăng hái để làm, còn nếu có ai chê bai thì nó vội vàng rút lui. Hành trang về trời của nó toàn là ba thứ cá nhân lỉnh kỉnh.

Qua đến đây, xứ lạ quê người. Trên thì bầu trời bao la, bát ngát. Dưới thì núi non, biển cả mênh mông. Những nỗi lo toan, tính toán để mưu sinh, đã làm cho nó ít có thì giờ nghĩ đến sự tội hay sự làm phúc. Vợ chồng của nó sống thật thản nhiên, và bình yên trong tình yêu gia đình với châm ngôn: “Tất cả vì con cái”. Từ trong nhóm lửa tình yêu ấy, nó cố gắng sống kiềm bớt sự giận dữ, giận hờn, hay trách móc khi nó gặp điều nó không vừa lòng. Vợ nó luôn nhắc nhở nó tạ ơn Chúa qua buổi đọc kinh chung sau bữa ăn tối. Nó cố gắng tìm người Việt để làm quen cho dù khác tín ngưỡng. Vì tình đồng bào, vì tình yêu của Thiên Chúa, nó cố gắng sống lảm gương, làm chứng nhân cho Chúa qua các việc làm dấu, đọc kinh trước các buổi ăn chung với mọi người, qua các lời nói, qua các việc làm bác ái, yêu thương nhau như tình người Việt Nam xa quê hương.

Nó cảm thấy sống gần với đất trời nhiều hơn. Nó trò chuyện với vợ con nhiều hơn so với thời gian trước. Nó đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, anh em, con cái, và mọi người thân quen nhiều hơn trước. Vì nó đang sống nơi thiếu thốn tình người Việt Nam.

Tiền bạc nó không thiếu đến nỗi phải sống cảnh nghèo nàn, nhưng đời có gì là chắc đâu để mà bám víu làm chỗ dung thân. Nhiều bạn bè thân quen của nó cho là nó liều lĩnh, nhưng thật ra nó có biết gì đâu để gọi là liều. Vì khi người ta liều thì họ biết mình không đủ sức mà dám làm. Còn nó thì giống như người điếc không sợ súng mà thôi. Thí dụ người lái xe tin tưởng vào chiếc xe của mình còn tốt máy không sợ hư nằm dọc đường. Thế nhưng chiếc xe vẫn hư, nằm dọc đường vì bị nổ bánh xe. Ở đời nhiều người cũng như nó tin vào sự tạm bợ của điều này, vật nọ, người này, người kia hơn là tin tưởng vào Thiên Chúa. Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, và là tình yêu. Đạo Chúa là đạo tình yêu, và Chúa đã dạy nó hãy yêu thương tha nhân như yêu chính thân mình. Và trong cách cư xử, Người cũng đã dạy nó là trước hết hãy lấy yêu thương mà cư xử với nhau. Yêu thương là giới răn của Chúa, vì khi yêu thì người ta dễ tha thứ cho nhau, người ta dễ chia sẻ sức sống, miếng ăn, ý tưởng, tình cảm, việc làm, để mọi người cùng được sống trong hạnh phúc của tình yêu. Cách sống đơn giản như thế, mà từ trước đến nay nó cũng như nhiều người chẳng thèm để ý tới. Nó cứ nghĩ, sống là phải đấu tranh, bạo tàn, chèn ép kẻ yếu, để mạnh được yếu thua như thời tiền cổ. Kẻ giàu thì có quyền hưởng thụ, còn kẻ nghèo thì chịu thiệt thòi, làm thân nô lệ chịu cảnh sai khiến suốt đời.

Nói về thương người, nó chợt nghĩ đến kinh: “Thương người có mười bốn mối” mà người ta hay đọc vào trước các buổi lễ Chúa Nhật hằng tuần. Trong bảy điều thương xác như: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống; Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù đầy; Cho khách ở trọ nhà; Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết. Trong bảy điều kể trên, nó may ra chỉ dám thực hiện được vài điều là cùng. Thí dụ như cho kẻ đói ăn, nếu ngày nay nó về lại Việt Nam thì sẽ có hàng vạn, hàng triệu người đói ăn, và nó sẽ bị đưa đến tình trang nhịn cho kẻ khác ăn. Còn điều cho kẻ khát uống, nếu cho uống nước lã thì được, chứ còn uống rượu, uống bia thì chính nó cũng còn đang khát những thứ ấy vì uống các thứ ấy có bao giờ hết khát đâu.

Trong bảy điều thương phần hồn như: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Trong bảy điều thương người ta về phần hồn này, nó cũng chỉ dám nhận thực hiện được vài điều là tối đa. Còn các điều nào khó quá thì xin dành cho các nhà tâm lý hay các đấng có quyền ăn nói.

Đã gọi là xét mình cuối năm thì nó cũng cần xét cả việc giữ giới răn của Chúa về mười điều răn và của Hội thánh có sáu điều răn nữa thì mới phải đạo làm con cái của Chúa.

Mười điều răn của Chúa bao gồm: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự; Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ; Giữ ngày Chúa Nhật; Thảo kính cha mẹ; Chớ giết người; Chớ làm sự dâm dục; Chớ lấy của người; Chớ làm chứng dối; Chớ muốn vợ chồng người; Chớ tham của người.

Còn sáu điều Hội thánh dạy bao gồm: Xem lễ ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc; Chớ làm việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc; Xưng tội trong một năm ít là một lần; Chịu mình thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục Sinh; Giữ chay những ngày Hội thánh buộc; Kiêng thịt ngày thứ sáu cùng những ngày khác Hội thánh dạy. Trong tất cả những điều răn ấy thì chắc gì nó và không ít người giữ đủ cho được, mà chắc hẳn nó cũng có nhiều lý do để bào chữa cho chính nó. Ấy là chưa kể, nó giữ các giới răn ấy như là sợ Chúa phạt hơn là yêu mến Chúa một các thực lòng, thí dụ đi lễ ngày Chúa Nhật cho có đi, chứ chẳng nâng hồn lên với Chúa, hoặc nó trò chuyện làm chia trí nhiều người trong thánh lễ, hoặc nó ngủ gật trong khi cha dâng lễ, vì nó mệt mỏi sau khi quá chén đêm thứ bảy cuối tuần. Chỉ mới xét sơ sơ mà thôi thì nó đã thấy mình bê bối, lỗi nghĩa với Chúa quá sức rồi. Ấy là chưa kể những lần nó làm việc lành, bố thí hay cầu nguyện và ăn chay theo kiểu những kẻ giả hình như trong Phúc âm thánh Mát- thêu đoạn 6. 1-18.  

Cầu mong Chúa rộng lòng tha thứ cho nó một năm cũ đã qua sống đạo bê tha, và bê bối. Để nhờ ơn Chúa giúp, năm mới nó sẽ sống xứng đáng hơn, tập tành các nhân đức: Khiêm nhường, rộng rãi bớt hà tiện, kiêng bớt ăn uống, siêng năng giúp việc Đức Chúa Trời, yêu thương tha nhân, bớt giận hờn và ghen ghét. Nó quyết tâm tích trữ cho mình kho tàng trên Trời bằng những lời nói hòa thuận, yêu thương, bằng những việc làm bác ái mà nó có thể làm được hàng ngày. Vì giờ Chúa gọi thì nào ai biết trước được là lúc nào, giờ nào, cho nên nó phải luôn sẵn sàng để Chúa gọi thì nó có thể thưa: “Này con đây, xin đến để làm theo ý Chúa”.

Thụy Miên




Leave a Reply.